tại sao các quốc gia thất bại tiki

TAI SAO CAC QUOC GIA THAT BAI. Sep. 29, 2014. • 3 likes • 2,135 views. Download Now. Download to read offline. Ảo tưởng của sự bất khả chiến bại - Sự trỗi dậy và sụp đổ của các doanh nghiệp bài học từ đế chế IncaTác giả: Andreas Krebs và Paul WilliamsTrong Ảo tưởng của sự bất khả chiến bại, Paul Williams Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại. 375. 2.2k. VIEWS. Chia sẻ Facebook. Home Đọc sách Online Kinh Tế. Tải Ứng Dụng Game Android Apk, tải happymod apk. 11.4k. 6.5k. TT - Một tập sách về một đề tài thời sự vừa ra mắt bạn đọc Việt Nam: Tại sao các quốc gia thất bại. Nội hàm "thất bại" được hai tác giả Daron Acemoglu và James A. Robinson trình bày bằng cách giải đáp câu hỏi từng gây bối rối cho các chuyên gia qua nhiều thế kỷ Các đại gia bán lẻ thất bại ở Hàn Quốc . Sau tám năm hoạt động ở Hàn Quốc, tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới Wal-Mart đã tuyên bố rút lui khỏi thị trường này bằng cách bán hết các cơ sở của mình cho tập đoàn bán lẻ nội địa Shinsegae với giá gần 900 triệu đôla Mỹ. Schatzkiste Partnervermittlung Für Menschen Mit Handicap. Nói về giấc mơ lớn, nhưng Ngô Hoàng Gia Khánh - Phó TGĐ của Tiki vẫn giữ vẻ ngoài rất giản dị Áo phông “truyền thống” màu xanh Tiki, quần bò, giày thể thao. Anh chia sẻ, bản thân có rất nhiều áo phông của Tiki để thay đổi và mặc mãi không chán. Ngoại hình của Gia Khánh có vẻ như chính là hình ảnh sàn thương mại điện tử Tiki trong mắt người tiêu dùng Dân văn phòng U30, đeo kính cận, thích đọc sách và yêu đồ công nghệ. Từ nước ngoài, cơ duyên nào khiến anh về Việt Nam và chọn làm việc tại Tiki? Trước Tiki, tôi chưa từng làm cho bất cứ công ty nào của người Việt. Sau thời gian sống và làm việc ở Indonesia, Singapore, tôi muốn về Việt Nam, cùng xây dựng một công ty do người Việt làm chủ. Khi gặp anh Sơn Trần Ngọc Thái Sơn –Founder & CEO Tiki cùng đội ngũ lãnh đạo của công ty, tôi cảm nhận họ là những người thực sự tử tế, hình ảnh của Tiki từ trước tới giờ cũng rất chân thành và thân thiện. Vì thế, tôi nghĩ bản thân sẽ hợp với nơi này. Ở đó 5 năm, anh cảm thấy thế nào? Rất khó! Khó hơn tôi nghĩ rất nhiều. Có quá nhiều biến số! Vì mỗi ngành hàng mới mở ra, lại giống như phải startup lần nữa. Ví dụ, Thế Giới Di Động là công ty bán lẻ rất mạnh mảng điện tử. Nhưng phải sau hơn 10 năm, họ mới mở thêm mảng bán lẻ khác là Bách hóa Xanh. Còn ở Tiki, cứ vài quý lại có thêm ngành hàng mới Mỹ phẩm, thời trang, hàng điện tử - điện lạnh, dịch vụ số... Thứ hai là áp lực cực kỳ lớn của công ty khi chưa có lợi nhuận vì cần liên tục đầu tư. Sẽ luôn có nỗi sợ Tiki không thể trụ vững và phải rời bỏ cuộc chơi. Thứ ba là thị trường đang cạnh tranh quá khốc liệt. Điều gì khiến anh luôn có nỗi sợ Tiki không trụ vững và phải rời bỏ cuộc chơi? Từ khi tôi tham gia Tiki, có khoảng 4 lần công ty gặp khó. Lúc đó, mọi người thường nói vui là công ty đã chui vào… “quan tài” rồi nhưng phút chót lại may mắn hồi sinh. Một kỷ niệm đáng nhớ là hồi năm 2016-2017, chỉ còn vài ngày nữa là đến kỳ trả lương cho nhân viên, nhưng tài khoản công ty không còn bao nhiêu tiền. Lúc đó, công ty áp dụng chính sách trong thời chiến, tức là sẽ trả lương từ dưới lên trên, bắt đầu từ cấp bậc thấp nhất. Những người có chức vụ càng cao với khả năng tài chính vững hơn một chút sẽ nhận lương sau. Riêng tôi và anh Sơn thống nhất rằng, đối với hai anh em, chuyện không nhận lương 2, 3 tháng không phải là vấn đề. Nhưng những bạn ở vị trí nhân viên chẳng hạn, sẽ gặp áp lực tài chính rất lớn nếu 1, 2 tháng không lương. Ngoài ra, thời điểm đó tôi cũng cần trao đổi và thương lượng rất nhiều với các đối tác về vấn đề thanh toán. Rất may mắn, những đối tác đã làm việc với Tiki 5, 6 năm đều cảm thông và hỗ trợ. Tiki luôn thực hiện đúng lời hứa, nên các đối tác ngày một tin tưởng công ty hơn. Rồi có lần, thứ 6 là ngày chuyển tiền lương và thanh toán nhiều khoản lớn, nhưng tới tận thứ 5, tài khoản của công ty vẫn không đủ tiền. Lúc đó, Tiki đang có một khoản vay ngân hàng và chỉ kịp giải ngân vào “phút 89”. Đúng 10h sáng thứ 6, kế toán trưởng hớt hải gọi điện cho tôi để báo tiền vừa về tới tài khoản. Ngay lập tức, tôi yêu cầu mọi người khẩn trương thanh toán lương cho nhân viên. Một chuyện khá xúc động khi đó là vào khoảnh khắc tin nhắn điện thoại thông báo lương từ ngân hàng đồng loạt vang lên, mọi người cùng đập tay nhau ăn mừng, gương mặt ai cũng rất hạnh phúc. Nhiều người đã nghĩ, ngày hôm đó sẽ không có lương để trang trải phí sinh hoạt. Khi niềm vui bất ngờ đến, nhiều người còn quay video và gửi lại cho tôi xem. Đến giờ, tôi vẫn lưu giữ những hình ảnh đó. Quả là kỉ niệm không thể nào quên. Nhiều công ty khi gặp khó khăn về tài chính vẫn có thể nói rõ với nhân viên và được chia sẻ bằng cách nợ lương. Việc chậm lương như trên có thực sự là vấn đề lớn đến thế? Tôi nhớ, có bạn nhân viên ở Tiki từng nói Đơn hàng đôi lúc bị trễ một chút, nhưng Tiki chưa trễ lương nhân viên lần nào. Bạn ấy còn nhắn tin cho quản lý, nói rằng rất tự hào khi là một thành viên tại Tiki. Tôi rất hạnh phúc vì những điều như vậy. Vì tôi nghĩ, trả lương đầy đủ, đúng hẹn là điều tối thiểu nhất mình phải làm được cho đồng đội. Mình phải giữ chữ tín với họ trước tiên, rồi sau đó mới có thể tròn vai với khách hàng, đối tác. Rất nhiều lần công ty gặp khó và tôi stress tới nỗi ăn không ngon, ngủ không yên. Những lúc quá căng thẳng, tôi thường đi dạo quanh văn phòng, nhìn mọi người làm việc. Lúc đó tôi rất xúc động, cảm xúc cực kỳ khó tả. Nghĩ đến tình cảnh lao đao của công ty, và trước mắt là những đôi tay cần mẫn làm việc tận tâm, tôi luôn tự nhủ, họ là những đồng đội đã chiến đấu cùng mình, và mình không thể để họ thất vọng. Những lúc công ty rơi vào lằn ranh sống – chết, có khi nào anh nghĩ Tiki sẽ sập? Nếu sập, anh sẽ thế nào? Thực sự nỗi sợ ấy từng hiện hữu. Vì có nhiều lúc, cái chết đến rất gần với công ty, gần tới mức tính bằng đơn vị ngày chứ không còn là tháng hay năm. Những khi căng thẳng ấy, tôi cũng không thể chia sẻ với nhiều người, mà chỉ có thể tâm sự với anh Sơn. Có một nỗi sợ công ty sẽ “ra đi”, nhưng vẫn có niềm tin rằng tất cả chúng tôi sẽ cùng nhau vượt qua. Cuối cùng cho dù có thất bại, tôi vẫn tin rằng, Tiki là một trong những người cầm ngọn cờ đầu của ngành e-commerce thương mại điện tử ở Việt Nam. Nếu không còn Tiki thì chắc chắn cũng sẽ có nhiều lớp doanh nghiệp Việt tự hào cầm ngọn cờ ấy đi tiếp, tiếp tục cuộc cạnh tranh khốc liệt với những gã khổng lồ của khu vực. Còn bản thân tôi cũng chưa tưởng tượng được nếu không có Tiki, tôi sẽ ra sao. Có thể anh không suy tính nhiều cho bản thân mình, nhưng nhân viên của anh thì sao? Hồi mới về Tiki cách đây 5 năm, tôi chỉ có duy nhất một nhân viên cấp dưới. Đấy là một cô gái rất chăm chỉ, thông minh và làm mảng tài chính. Bỗng một ngày, bạn ấy xin nghỉ việc. Lúc đó, tình hình công ty rất căng thẳng. Bạn có chia sẻ với tôi rằng, 9 tháng tới bạn dự định sẽ sinh em bé. Vì làm tài chính nên bạn hiểu rõ tình cảnh khó khăn của Tiki lúc bấy giờ. Để đảm bảo chế độ thai sản tốt nhất, bạn ấy cần dứt khoát nghỉ việc ở Tiki, chuyển đi chỗ khác và làm ở đó ít nhất 6 tháng trước sinh. Tôi rất bất ngờ, nhưng không thể không ủng hộ. Vì tôi hiểu rằng, cuối cùng, gia đình vẫn là trên hết. Tôi chia sẻ với bạn, cứ về suy nghĩ một tuần. Nếu sau đó, bạn ấy vẫn muốn nghỉ, tôi sẽ viết thư giới thiệu đến một số công ty mình quen biết và có thể phù hợp với bạn. Không ngờ, một tuần sau bạn quay lại và nói sẽ không nghỉ việc nữa, sẽ tiếp tục chiến đấu cùng mọi người để vượt qua giai đoạn sinh tử này. 9 tháng sau, theo đúng kế hoạch, bạn ấy nghỉ sinh. Và lúc bấy giờ, tình hình của Tiki cũng đã ổn định hơn rất nhiều. Tôi nhớ như in hình ảnh bạn ấy vác bụng bầu to nặng nề đến công ty làm việc miệt mài, đi sớm về khuya cùng các anh chị em. Đến giờ, sau 4-5 năm, bạn ấy đã chào đón thêm thiên thần thứ hai và vẫn đang gắn bó cùng Tiki. Nói vậy, các công ty startup như Tiki không hề có màu hồng? Thật ra là màu hồng, nhưng là màu hồng đất và hồng pha cả xám, đen! cười lớn Mọi người hay nhớ đến những hào quang hay thành công, chứ mấy ai hiểu đằng sau đó là sự hy sinh rất lớn của rất nhiều con người. Và khi đã trải qua những giai đoạn khó khăn như thế, bản thân tôi càng biết trân trọng hơn những anh chị em đã vất vả vì doanh nghiệp, cũng trân trọng hơn những ngày tháng công ty được bình yên và đạt những cột mốc phát triển. Bây giờ Tiki còn lao đao nữa không? Lúc chông chênh là khoảng thời gian đã qua. Còn bây giờ công ty đã vững vàng, lớn mạnh hơn rất nhiều với hơn nhân viên. Và tôi có thể đảm bảo, không một ai phải lo lắng như bạn nhân viên nữ năm ấy nữa. Trước kia, lý do gì khiến Tiki từng khó khăn như thế? Rất nhiều lý do. Cũng có lúc do đầu tư hơi quá tay cười, hoặc đầu tư nhiều nhưng kết quả thu về chậm hơn dự kiến. Ví dụ mình tính toán đầu tư 10 đồng, thu lại trong 2 năm, nhưng thực tế lại mất tới 4 năm. Ngoài ra cũng vì thị trường cạnh tranh rất khốc liệt và thay đổi hành vi người tiêu dùng nhanh chóng. Sau những lần đó, anh rút được bài học gì? Trong việc gọi vốn, bài học đầu tiên là khi nào tiền vào trong tài khoản công ty rồi mới được tính là một thương vụ thành công. Lúc đầu tôi khá ngây thơ, cứ nghĩ ký hợp đồng là xong, và yên tâm tính toán dòng tiền theo đúng hợp đồng đã ký. Nhưng thực tế không dễ dàng như thế. Vì có những sự cố xảy ra không thể lường trước khiến đối tác dù đã ký hợp đồng, vẫn rút lại đề nghị đầu tư vào phút chót. Điều đó dẫn đến việc tính toán dòng tiền không đúng với thực tế, nên công ty sẽ có một đoạn đường rất khó khăn về sau. Những lúc gặp khó, điều gì giúp các anh thoát khỏi rắc rối? Tôi luôn tự vấn lại bản thân vì sao lại bắt đầu với Tiki? Mỗi lần công ty chao đảo, anh em lãnh đạo lại ngồi hỏi nhau rằng Mọi người muốn làm Tiki để làm gì? Để làm một công ty nhỏ nhưng có lãi, hay công ty lớn nhưng rất áp lực về tài chính? Chúng tôi đến cuối cùng đều chọn con đường thứ hai, tức là muốn làm cái gì đó ý nghĩa, mang lại tác động tích cực lớn lao cho nhiều người. Bởi vì nếu công ty bạn quá nhỏ bé, thì dù có sống hay chết, cũng chẳng mấy ai quan tâm. Ví dụ, trước Tiki đã có cả 10 trang thương mại điện tử bán sách, nhưng giờ đây, liệu ai còn nhớ tên? Tôi rất muốn, dù không trụ vững, Tiki vẫn phải có di sản để lại. Nếu mình không còn thì việc chỉ có một người nhớ đến, hay có 10 triệu người nhớ đến, đó là hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau. Hiện tại, Tiki mỗi tháng có active user người dùng hoạt động là 28-30 triệu người, nên tôi tin, nếu nhỡ trộm vía – cười Tiki không còn, sẽ có rất nhiều người buồn và nhớ đến. Theo anh, đâu là khó khăn lớn nhất với một startup lĩnh vực thương mại điện tử như Tiki? Là thu hút người dùng và giữ họ ở lại với mình trong nhiều năm. Vì nhu cầu của họ luôn thay đổi và yêu cầu ngày càng cao. Sau khi Covid-19 xảy ra, mọi tính toán càng cần cẩn trọng hơn. Vì mình đã đổ rất nhiều tiền để thu hút khách sử dụng dịch vụ lần đầu, thì cần phải tính toán xem những người đó sẽ mua tiếp ở Tiki bao nhiêu đơn hàng, sản phẩm tiếp theo họ mua sẽ là gì? Điều đó cũng đòi hỏi dịch vụ của Tiki phải đủ tốt, khiến khách hàng tiếp tục trung thành với nền tảng của mình mà không cần tốn thêm tiền thu hút họ lần nữa. Khi nói về dịch vụ đủ tốt, anh nghĩ sao về một số phản hồi từ khách hàng rằng họ vẫn mua phải sách lậu, hàng kém chất lượng hoặc không giống với hình đăng trên mạng tại Tiki? Tôi cũng từng nghe một số phản ánh như vậy. Thực ra điều đó phụ thuộc vào định nghĩa của từng cá nhân về khái niệm “chính hãng”. Riêng với Tiki, chúng tôi luôn cam kết bán hàng từ chính thương hiệu đó, sản phẩm có đầy đủ giấy phép bán hàng, giấy phép quảng cáo, có thể truy xuất được hóa đơn đỏ… thì đó là hàng chính hãng. Nếu nhà bán hàng nào vi phạm, bán hàng giả và Tiki phát hiện được thì dù chỉ một lần, họ cũng bị đóng tài khoản vĩnh viễn. Trường hợp khách hàng phản ánh đúng, trước tiên Tiki sẽ xin lỗi và có phương án giải quyết ngay cho khách hàng, sau đó làm việc lại với đơn vị bán hàng và có biện pháp xử lý nghiêm khắc. Nhưng cuối cùng, tương lai Tiki sẽ là gì khi hiện nay doanh nghiệp vẫn lỗ chồng lỗ? Tiki vẫn đang trong giai đoạn đầu tư để đánh chiếm thị phần. Vì khi thị phần càng lớn, chi phí phục vụ một đơn hàng càng nhỏ. Thế giới đã có những mô hình thương mại điện tử thành công lớn. Con đường đi của Tiki sẽ giống Amazon. Ban đầu Amazon bán sách và họ cũng tập trung rất nhiều vào khâu vận chuyển, ví dụ giao miễn phí trong vòng 2 ngày. Tiki cũng bắt đầu với sách, và cũng phát triển những dịch vụ giao hàng tối ưu, nhưng là trong vòng 2 giờ chứ không phải 2 ngày. Tất nhiên, vì có những mô hình thành công như Amazon nên Tiki đã học hỏi được rất nhiều. Tương lai, Tiki muốn trở thành thương hiệu quốc dân của Việt Nam trong ngành thương mại điện tử. Hiện nay, Việt Nam đã đi sau doanh nghiệp nước ngoài rất nhiều. Có một thực tế là khi nói về tìm kiếm thì không ai bằng Google, mạng xã hội không ai qua nổi Facebook, gọi xe đã có Grab, đặt nhà hàng, khách sạn có Booking, Agoda thắng thế… Vậy thì người Việt có thể hy vọng vào điều gì? Tiki rất muốn có một chỗ đứng trong lòng của người tiêu dùng Việt Nam, để khi nhắc đến thương mại điện tử, thương hiệu này sẽ xuất hiện đầu tiên trong suy nghĩ của họ. Khi nói về những mục tiêu lớn đó, anh nghĩ có bao nhiêu phần trăm nó sẽ thành hiện thực? Tôi vẫn luôn tin, ngành thương mại điện tử ở Việt Nam chắc chắn sẽ có kỳ lân công ty được định giá 1 tỷ đô trở lên vì thị trường Việt Nam đủ lớn. 100 triệu dân không phải nhỏ vì không có nhiều nước trong khu vực đạt tới quy mô dân số như vậy. Thậm chí trước khi dịch Covid-19 bùng lên, tôi đã nghĩ, Tiki chỉ cần 2-3 năm nữa sẽ hóa thành kỳ lân. Nhưng đại dịch đã khiến mọi tính toán chệch hướng một chút. Có lẽ phải chờ thêm một vài năm nữa khi kinh tế Việt Nam và thế giới ổn định lại, mới biết chắc chắn được Tiki sẽ cần thêm bao nhiêu thời gian để đạt tới vị trí đó. Vậy anh đánh giá gì về những đối thủ lớn khác trên thị trường? Hiện nay thị trường đang ở giai đoạn cạnh tranh quyết liệt để xác định “thế chân vạc”. Vì cuối cùng cũng chỉ cần 2, tối đa 3 thương hiệu cùng tồn tại. Trên thế giới cũng vậy, đến nay chưa có thị trường nào nhiều hơn 3 “người chơi”. Các đối thủ khác đều rất mạnh, có sự hậu thuẫn tài chính rất lớn từ công ty mẹ. Họ là những gã khổng lồ trong khu vực và có những chiến lược cạnh tranh rất đáng học hỏi. Mỗi sàn có thế mạnh riêng. Ví dụ, hình dung của Tiki trong mắt người tiêu dùng rất rõ ràng, đó là một người U30, dân văn phòng, đeo kính cận, rất thích đọc sách và yêu đồ công nghệ. Một số đơn vị khác sẽ có thế mạnh về hàng hóa đa dạng, những cá nhân nhỏ lẻ đều có thể tham gia bán hàng. Tiki có những yêu cầu khác, hàng hóa vẫn phải đủ đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng, nhưng vẫn đảm bảo đã được chọn lọc kỹ càng, chính hãng và giao nhanh. Vì thế đòi hỏi người bán phải đăng ký kinh doanh, kê khai được hóa đơn đỏ, chứng từ đầy đủ, đồng thời Tiki cũng phải đầu tư rất nhiều vào hệ thống logistics và chuỗi cung ứng. Khi anh nói Tiki giống như một nhân viên văn phòng U30, thích đọc sách, yêu đồ công nghệ, đeo kính cận, thì dường như, hình ảnh đó rất giống anh lúc này? Có lẽ giản dị cũng là cách mình hòa hợp với công ty. Ở Tiki, mọi người rất bình dân, không thường xuyên lên đồ…“chanh sả”. Như tôi bây giờ, đi phỏng vấn cũng chỉ mặc quần bò, áo phông cười. Thực ra, nhu cầu cuộc sống của mình rất đơn giản. Ví dụ, tôi chỉ mặc áo mà Tiki tặng và có nhiều cái để thay đổi không thấy chán. Tôi quan niệm, không quan trọng thu nhập của mình ra sao, miễn sao mình cảm thấy thoải mái, không lo lắng về tài chính là được. Đổi lại cho cuộc sống giản dị và luôn suy nghĩ vì công ty, anh có gì? Có niềm vui rất lớn vì khi gắn bó với một doanh nghiệp trẻ như vậy, tôi mới có cơ hội được làm nhiều thứ mà đáng lẽ ở tuổi như mình rất khó được làm. Thứ hai là niềm tự hào. Tôi rất nhớ cảm giác khi được hướng dẫn mẹ dùng ứng dụng Tiki lúc công ty xây được kho hàng ở Đà Nẵng. Tôi đã cài thẻ sẵn cho mẹ và bà có thể mua gì tùy thích, chỉ cần ngồi ở nhà, có người giao tới tận nơi. Khi thấy mẹ vui về những sản phẩm, dịch vụ mà chính mình và các anh chị em đồng nghiệp xây dựng, tôi cũng rất hạnh phúc và tự hào gấp bội. Niềm tự hào nữa là rất nhiều bạn trẻ sau khi rời Tiki đã khởi nghiệp thành công hoặc làm việc cho những công ty công nghệ lớn như Amazon, Walmart, Google… Rõ ràng, Tiki đã giúp họ có sự chuẩn bị rất tốt cho chặng đường sự nghiệp tiếp theo. Thứ ba là niềm tự hào khi Tiki đang có hơn nhân viên và phục vụ rất nhiều khách hàng. Tất nhiên “nuôi nhiều con” sẽ không khỏi vất vả. Nhưng Tiki luôn mong muốn có đủ tài chính để tạo ra nhiều công ăn việc làm có thu nhập cao hơn mặt bằng chung cho tất cả mọi người. Trong số những điều đó, anh tự hào nhất về điều gì? Tự hào vì Tiki rất thuần Việt. Đối với những đơn vị khác, mất thị trường Việt Nam có thể là điều bình thường. Nhưng với Tiki, Việt Nam là máu thịt. Tiki chỉ có Việt Nam nên không có đường lùi và phải quyết sinh ở thị trường này. Trong 2-3 năm tới, Tiki chưa có ý định mở rộng ra nước ngoài. Nhưng dù có mở rộng đi đâu, bằng mọi giá, Tiki vẫn không thể mất thị trường Việt. Tất nhiên nếu nhìn ra khu vực, thị trường Indonesia lớn hơn Việt Nam gấp 3 lần, rồi Philipines, Malaysia hay Đài Loan, Singapore cũng rất lớn, nhưng với Tiki, Việt Nam luôn là thị trường quan trọng nhất. Với Tiki, Việt Nam là máu thịt và luôn là thị trường quan trọng nhất! Xin cảm ơn anh vì cuộc trò chuyện này! TT - Một tập sách về một đề tài thời sự vừa ra mắt bạn đọc Việt Nam Tại sao các quốc gia thất bại. Tại sao các quốc gia thất bại Nội hàm "thất bại" được hai tác giả Daron Acemoglu và James A. Robinson trình bày bằng cách giải đáp câu hỏi từng gây bối rối cho các chuyên gia qua nhiều thế kỷ Tại sao một số nước giàu còn nhiều nước khác lại nghèo, bị chia rẽ giữa phồn vinh và nghèo khó, mạnh khỏe và bệnh tật, no đủ và đói kém? Phóng toSách do NXB Trẻ ấn hành - Ảnh sách vì thế đã chạm ngay vào những thực tế khốc liệt, vĩ đại, vinh quang và cả đau đớn của nhiều quốc gia, dân tộc. Ở thời đại toàn cầu hóa, kinh nghiệm về nghệ thuật quản trị xã hội và phát triển đất nước đang ngày một cởi mở trong tương tác bằng nhiều kênh. Nhưng mấu chốt vẫn là vấn đề con người. Do đó, những vấn đề như "Các nước nghèo không phải vì yếu tố địa lý hay văn hóa, hay vì các nhà lãnh đạo đất nước không biết chính sách nào sẽ làm giàu cho dân chúng", "Sự thịnh vượng và đói nghèo được quyết định bởi các động cơ khuyến khích hình thành từ các thể chế như thế nào" được đặt ra như khía đúng điểm quan tâm chung của những người đang theo dõi cuộc chuyển biến toàn cầu hiện nay. Bằng cái nhìn bao quát và thâm nhập lịch sử của nhiều quốc gia đông tây kim cổ, hai giáo sư Daron Acemoglu và James A. Robinson lập luận rằng những quốc gia thất bại là những đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này đã tổ chức xã hội để phục vụ quyền lợi riêng của họ trong khi đại đa số quần chúng nhân dân phải trả giá. Daron Acemoglu và James Robinson đã đưa ra câu trả lời và chứng minh dứt khoát rằng chính những thể chế kinh tế và chính trị do con người tạo ra là nguyên nhân của sự thành công hay không thành công về kinh tế. Tập sách là công trình nghiên cứu trong 15 năm của hai nhà kinh tế học xuất sắc và uyên bác. Ấn bản tại VN do Nguyễn Thị Kim Chi dịch cùng sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan, Vũ Thành Tự Anh hiệu đính. Tựu trung, điều cuốn sách muốn nhắm đến là những thể chế nào có những điều chỉnh, cải cách để dung hợp được các lợi ích kinh tế - chính trị và tạo điều kiện cho người dân làm ăn sinh sống được tốt nhất sẽ thành công. Như sách đã chỉ ra, ngay như Trung Quốc khi họ giải quyết được phần nào đó sự dung hợp này, họ đã có sự tăng trưởng thần kỳ. Và giờ đây họ vẫn tiếp tục giải quyết bài toán hể chế dung hợp của họ. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao VIỆT NAM là một trong những thành công về kinh tế trong 30 năm qua. Mặc dù hiện nay, với mức thu nhập bình quân đầu người khoảng đôla theo sức mua tương đương, tuy chưa phải là một nước giàu, song Việt Nam đã đạt được những thành tích giảm nghèo nổi bật chỉ trong vòng ba thập kỷ, biến một quốc gia trong đó tình trạng nghèo là phổ biến trở thành một quốc gia với tỷ lệ nghèo chỉ còn khoảng 10% theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới. Bản thân thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đã tăng gấp 10 lần trong giai đoạn này. Tại sao vào thời điểm năm 1980, Việt Nam lại nghèo như vậy? Tại sao sau đó Việt Nam lại phát triển nhanh chóng? Các nhà kinh tế học và các nhà khoa học xã hội đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau cho những sự kiện kiểu này. Một số người cho rằng sự thành công kinh tế của một quốc gia hoặc khu vực được xác định bởi vị trí địa lý hay điều kiện sinh thái của nó. Các học giả này đặc biệt quan tâm đến việc một quốc gia có nằm trong khu vực nhiệt đới hay không. Theo họ, vì Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới giữa hạ chí tuyến và xích đạo nên tiềm năng kinh tế nội tại của nó chỉ có giới hạn. Nhưng sự thay đổi sâu sắc trong quỹ đạo kinh tế của Việt Nam trong 30 năm qua không hề liên quan tới sự thay đổi vị trí địa lý. Một số người khác sẽ lập luận rằng văn hóa của một dân tộc, các chuẩn mực xã hội, các giá trị, hay đạo đức làm việc sẽ quyết định sự thành công hay thất bại về kinh tế. Nhưng một lần nữa, văn hóa Việt Nam đã không thay đổi kể từ thập niên 1980 trở lại đây. Cuối củng, nếu bạn tham dự các lớp kinh tế phát triển ở các khoa kinh tế học hàng đầu thế giới, bạn sẽ được học là chúng ta đơn giản không biết tại sao Việt Nam đã nghèo trong gần suốt lịch sử của mình nhưng gần đây lại tăng trưởng nhanh chóng. Có lẽ là do cuối cùng Việt Nam cũng có được những nhà kinh tế học tài ba, hoặc nhờ đổi mới tư duy, hoặc đơn giản chỉ là do may mắn. Cuốn sách này cung cấp các công cụ thích hợp để hiểu tại sao Việt Nam đã từng rất nghèo và tại sao tình trạng nghèo này bắt đầu thay đổi từ thập niên 1980. Nó cũng giúp chúng ta hiểu được liệu những thay đổi diễn ra ở Việt Nam trong ba thập niên vừa qua có bền vững hay không. Lịch sử trì trệ và sự tăng trưởng gần đây ở Việt Nam không xuất phát từ các nguyên nhân địa lý hay văn hóa mà xuất phát từ những quy tắc – hay thể chế – mà bản thân xã hội Việt Nam đã tạo ra. Để thành công về kinh tế, xã hội cần phải tạo ra được một tập hợp các thể chế kinh tế có thể thúc đẩy tài năng, kỹ năng, sự sáng tạo và năng lượng của người dân, và những năng lực này được phân phối một cách rộng rãi trong toàn xã hội, nhờ đó tạo thành một đặc tính quan trọng – tính dung hợp – của tập hợp thể chế kinh tế có khả năng tạo ra sự thịnh vượng. Tính dung hợp của tập hợp thể chế này tạo ra các cơ hội bình đẳng về kinh tế cho tất cả mọi người, đem lại cho họ quyền sở hữu tài sản, quyền tiếp cận với thị trường, cơ hội giáo dục, và bình đẳng trước pháp luật. Chẳng hạn như lịch sử nghèo đói của Việt Nam trong thời phong kiến hoặc dưới thời Pháp thuộc có thể được giải thích bằng thực tế là các thể chế kinh tế trong những thời kỳ này không có tính dung hợp mà có tính tước đoạt những thể chế được thiết kế để hạn chế cơ hội, để tạo ra ẩn sủng và độc quyền cho một vài nhóm thiểu số và bắt đa số còn lại phải trả giá. Họ dập tắt cơ hội của nhiều người, trao đặc quyền cho một số thiểu số trong giới quyền thế bản địa hay cho thực dân Pháp. Nhưng tại sao trong lịch sử Việt Nam, giống như phần lớn thế giới, lại tồn tại các thể chế kinh tế có tính chiếm đoạt? Có thể thấy điều này rõ nhất khi xem xét trường hợp của thực dân Pháp. Với công nghệ quân sự ưu việt và sự thống trị chính trị, người Pháp đã có thể áp đặt một tập hợp các quy tắc tạo đặc quyền cho chính họ và tay sai. Vì vậy, chìa khóa để nhận biết một thể chế kinh tế có tính dung hợp hay chiếm đoạt nằm ở bản chất của chính trị và quyền lực chính trị. Trong nhà nước thuộc địa Pháp, quyền lực chính trị đã được phân phối trong phạm vi hẹp, và nhà nước được sử dụng để ủng hộ các lợi ích đặc biệt – do vậy thể chế chính trị có tính chiếm đoạt. Người Việt Nam, mặc dù chiếm đa số, nhưng đã bị trục xuất ra khỏi địa hạt quyền lực chính trị và bị tước đoạt cơ hội kinh tế. Điều này trên thực tế cũng đã từng tồn tại, ngay cả trước khi thực dân Pháp xuất hiện, chỉ khác là quyền lực được trao cho giới quyền thế trong nước chứ không phải nước ngoài. Trong cuốn sách này, chúng tôi chứng minh rằng trong hầu hết mọi trường hợp, một nước sở dĩ nghèo là do họ có các thể chế kinh tế chiếm đoạt, bắt nguồn từ các thể chế chính trị chiếm đoạt. Còn các nước giàu sở dĩ giàu là bởi vì họ có các thể chế chính trị dung hợp, với nhà nước mạnh và có trách nhiệm giải trình, và quyền lực chính trị được phân phối một cách rộng rãi, và nhờ đó tạo ra các thể chế kinh tế dung hợp. Để trở nên giàu có, một nước nghèo phải chuyển đổi từ các thể chế chiếm đoạt sang dung hợp. Trong địa hạt kinh tế, đây chính là căn nguyên tạo ra tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam gần đây. Sau khi đánh đổ chế độ thực dân và thống nhất đất nước, Việt Nam đã tạo ra một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong đó nhà nước sở hữu toàn bộ đất đai và hầu hết các ngành công nghiệp. Tuy nhiên các thử nghiệm với nền kinh tế chỉ huy trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 đã cho thấy những hạn chế kinh tế nghiêm trọng của mô hình này. Trong khi đó, quá trình chuyển đổi của Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình cho thấy rằng sự ra đời của các tổ chức kinh tế dung hợp hơn đã tạo ra tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn giữ được quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Chính sách Đổi mới của Chính phủ Việt Nam từ năm 1986 được đưa ra nhằm chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính sách kinh tế Đổi mới đã đem lại những khuyến khích có tính thị trường, giải tán nông nghiệp tập thể, loại bỏ kiểm soát giá cả hàng nông sản, và cho phép nông dân tiêu thụ hàng hóa của họ trên thị trường. Giống như Trung Quốc, phong trào chuyển sang các thể chế dung hợp này đã thành công và bắt đầu phát huy những tài năng tiềm ẩn to lớn nhưng chưa được giải phóng của ngưởi dân. Những cải cách này cùng với những cải cách sau đó đã khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài. Như vậy, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ thập niên 1980 đã được thúc đẩy bởi phong trào chuyển sang các thể chế kinh tế dung hợp hơn, mặc dù quá trình chuyển đổi này vẫn còn một chặng đường dài trước mắt. Việt Nam sẽ phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách một cách toàn diện nếu muốn duy trì được đà tăng trưởng hiện nay và gia nhập hàng ngũ những quốc gia giàu mạnh nhất thế giới. Tham khảo thêm Tập Trung Để Khác Biệt Đắc Nhân Tâm Dụng Nhân Sào Huyệt Của Những Ông Trùm Nguồn Bạn cũng có thể đặt mua sách Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại TẠI ĐÂYLưu ý Đơn đặt hàng thành công là đơn hàng được chúng tôi gọi & xác nhận lại qua điện thoại với quý khách ngay trong ngày. * Giá sản phẩm trên website đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Tuy nhiên tuỳ vào từng loại sản phẩm hoặc phương thức, địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, ..Bạn Có Quan Tâm?Deal Hot "Tuyệt diệu... xuất sắc nhờ tính đơn giản và sức thuyết phục của nó" - Steven Levitt Sử dụng lịch sử Đông-Tây kim-cổ đã diễn ra trên tất cả các châu lục của trái đất này, hai tác giả lập luận rằng những quốc gia thất bại là những đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này đã tổ chức xã hội để phục vụ cho quyền lợi riêng của họ trong khi đại đa số quần chúng nhân dân phải trả giá. Thế lực chính trị bị tập trung trong một nhóm nhỏ, được sử dụng để tạo ra tài sản khổng lồ cho những người nắm giữ quyền lực. Trong khi đó, những nước trở nên giàu có là vì người dân nước đó lật đổ giới quyền thế, những người kiểm soát quyền lực, và tạo ra một xã hội trong đó các quyền chính trị được phân phối rộng rãi, trong đó chính phủ có trách nhiệm giải trình và phải đáp ứng trước công dân, và trong đó đại đa số quần chúng có thể tranh thủ các cơ hội kinh tế. Tóm lại, điều cuốn sách muốn nhắm đến là thể chế nào có những điều chỉnh, cải cách để dung hợp được các lợi ích kinh tế-chính trị và tạo điều kiện cho người dân làm ăn sinh sống được tốt nhất sẽ thành công. Như sách đã chỉ ra, ngay như Trung Quốc, khi họ giải quyết được phần nào đó sự dung hợp này, họ đã có sự tăng trưởng thần kỳ. Và giờ đây họ vẫn tiếp tục giải quyết bài toán thể chế dung hợp của họ. Về tác giảDaron Acemoglu được phong danh hiệu Giáo sư Killian chuyên ngành Kinh tế học ở Viện Công nghệ Massachusetts MIT. Năm 2005, ông được tặng Huân chương John Bates Clark dành cho những nhà kinh tế học dưới bốn mươi tuổi được công nhận là đã có những đóng góp quan trọng nhất cho kho tàng tư tưởng và tri thức kinh tế. James A. Robinson là nhà khoa học chính trị và nhà kinh tế học, được phong danh hiệu Giáo sư David Florence về Chính phủ tại Đại học Harvard. Là chuyên gia nổi tiếng thế giới về châu Mỹ Latinh và châu Phi, ông từng làm việc ở Botswana, Mauritius, Sierra Leone, và Nam định"Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại là một quyển sách tuyệt diệu. Acemoglu và Robinson đã nhắm vào một trong những vấn đề quan trọng nhất trong khoa học xã hội - một câu hỏi giày vò các nhà tư tưởng hàng đầu qua nhiều thế kỷ - và đã mang lại lời giải đáp xuất sắc nhờ tính đơn giản và sức thuyết phục của nó. Là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa lịch sử, khoa học chính trị và kinh tế học, quyển sách này sẽ làm thay đổi cách tư duy của chúng ta về phát triển kinh tế. Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại là một quyển sách mà bạn phải đọc.” - Stevent Levitt, đồng tác giả của tác phẩm Kinh tế học hài hước Freakonomics “Có ba lý do khiến bạn sẽ yêu thích quyển sách này. Nó nói về sự chênh lệnh thu nhập quốc gia trong thế giới hiện đại, có lẽ là vấn để lớn nhất của thế giới ngày nay. Nó lại càng thêm sống động với nhũng câu chuyện kỳ thú làm cho bạn trở nên cuốn hút trong những bữa tiệc cocktail - như lý do gì khiến Botswana thịnh vượng còn Sierra Leone thì không. Và nó rất dễ đọc. Cũng như tôi, bạn không tránh khỏi sẽ đọc quyển sách một mạch từ đầu đến cuối, rồi đọc đi đọc lại thêm nhiều lần nữa.” - Jared Diamond, tác giả của những tác phẩm bán chạy nhất từng đoạt giải Pulitzer như Súng, vi trùng và thép Guns, Germs, and Steel và Sụp đổ Collapse “Một quyển sách hấp dẫn và vô cùng dễ đọc. Và kết luận là một tin vui các thể chế chiếm đoạt’ chuyên quyền như những thể chế đang thúc đẩy tăng trưởng ở Trung Qụốc ngày nay nhất định sẽ kiệt sức. Không có những thể chế dung hợp được hình thành trước tiên ở phương Tây thì sẽ không thể có tăng trưởng bền vững, vì chỉ có một xã hội thực sự tự do mới có thể đem đến sự đổi mới thực thụ cũng như hệ quả tất yếu của nó sự phá hủy sáng tạo.” - Niall Ferguson, tác giả của tác phẩm The Ascent of Money "Trước đây, một triết gia người Xcốt-len ít ai biết đến đã viết một quyển sách về những điều làm các nước thành công và những điều khiến họ thất bại. Qụyển sách Sự Thịnh Vượng Của Các Quốc Gia The Wealth of Nations đến ngày nay vẫn còn được đọc. Với cùng tinh thần sáng suốt và tầm nhìn lịch sử bao quát như thế, Daron Acemoglu và James Robinson đã trả lời câu hỏi tương tự cho thời đại của chúng ta. Sau hai thế kỷ nữa, cháu chắt chút chít của chúng ta cũng sẽ vẫn đọc Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại.” - George Akerlof, giải Nobel kinh tẽ năm 2001 “Quyển sách Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại thật hay trên nhiều phương diện đến mức tôi không chắc có thể kể hết ra được. Nó giải thích về những miền đất rộng lớn trong lịch sử loài người. Dù ở châu Á, châu Phi, hay châu Mỹ nó đều thông thuộc như nhau. Nó công bằng cho cả cánh tả lẫn cánh hữu cũng như mọi xu hướng trung dung. Nó không nện thẳng cánh mà cũng chẳng lăng mạ cốt để lôi cuốn sự chú ý. Nó vừa làm sáng tỏ quá khứ vừa trao cho chúng ta một cách thức mới để tư duy về hiện tại. Chính quyển sách hiếm có trong kinh tế học này sẽ thuyết phục độc giả rằng hai tác giả muốn đem lại những điều tốt đẹp nhất cho những con người bình thường. Nó mang lại cho các học giả những tháng năm tranh luận, cho những độc giả bình thường những năm tháng chuyện trò bên bàn ăn theo kiểu “này, bạn có biết không ...” Nó có những mẩu chuyện vui mà ta luôn luôn đón nhận. Nó là một quyển sách xuất sắc và bạn nên mua ngay, qua đó khuyến khích các tác giả tiếp tục sự nghiệp của mình.” - Charles C. Mann, tác giả cùa 1491 và 1493Mục lụcLời nói đầu Chương 1 Rất gần nhau mà rất khác nhau Chương 2 Những lý thuyết không thuyết phục Chương 3 Tạo ra thịnh vượng và đói nghèo Chương 4 Những khác biệt nhỏ và những thời khắc quyết định - sức nặng của lịch sử Chương 5 "Tôi đã nhình thấy tương lai, và nó đang chạy tốt" - Tăng trưởng trong các thể chế chiếm đoạt Chương 6 Phân hóa thể chế Chương 7 Bước ngoặt thể chế Chương 8 Không phải trên lãnh địa của chúng ta - Các rào cản phát triển Chương 9 Đảo ngược sự phát triển Chương 10 Truyền bá sự thịnh vượng Chương 11 Vòng xoáy đi lên Chương 12 Vòng xoáy đi xuống Chương 13 Tại sao các quốc gia ngày nay thất bại? Chương 14 Phá khuôn Chương 15 Tìm hiểu sự thịnh vượng và đói nghèo Lời cảm ơn Tài liệu và nguồn tra cứuCảm nhận từ độc giả TẠI SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI - NGUỒN GỐC CỦA QUYỀN LỰC, THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO ĐÓI Sử dụng lịch sử Đông-Tây kim-cổ đã diễn ra trên tất cả các châu lục của trái đất này, hai tác giả lập luận rằng những quốc gia thất bại là những đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này đã tổ chức xã hội để phục vụ cho quyền lợi riêng của họ trong khi đại đa số quần chúng nhân dân phải trả giá. Thế lực chính trị bị tập trung trong một nhóm nhỏ, được sử dụng để tạo ra tài sản khổng lồ cho những người nắm giữ quyền lực. Trong khi đó, những nước trở nên giàu có là vì người dân nước đó lật đổ giới quyền thế, những người kiểm soát quyền lực, và tạo ra một xã hội trong đó các quyền chính trị được phân phối rộng rãi, trong đó chính phủ có trách nhiệm giải trình và phải đáp ứng trước công dân, và trong đó đại đa số quần chúng có thể tranh thủ các cơ hội kinh tế. Tóm lại, điều cuốn sách muốn nhắm đến là thể chế nào có những điều chỉnh, cải cách để dung hợp được các lợi ích kinh tế-chính trị và tạo điều kiện cho người dân làm ăn sinh sống được tốt nhất sẽ thành công. Như sách đã chỉ ra, ngay như Trung Quốc, khi họ giải quyết được phần nào đó sự dung hợp này, họ đã có sự tăng trưởng thần kỳ. Và giờ đây họ vẫn tiếp tục giải quyết bài toán thể chế dung hợp của họ. trân trọng giới thiệu cuốn sách tới bạn đọc!

tại sao các quốc gia thất bại tiki